Bảo Hiểm Nông Nghiệp – Bài 3: Thị trường teo tóp, cần cú hích chính sách
<strong><em>Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, thiên tai, dịch bệnh liên tục xảy ra, nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp luôn phải đối diện với rủi ro mất mùa, thiệt hại tài sản. Bảo hiểm nông nghiệp được kỳ vọng là “lá chắn tài chính”, giúp chia sẻ tổn thất, ổn định sinh kế. Tuy nhiên, sau hơn sáu năm triển khai theo Nghị định 58/2018/NĐ-CP, chính sách này vẫn chưa phát huy hết vai trò, thậm chí ngày càng “teo tóp”.</em></strong>
| Đưa bảo hiểm nông nghiệp đến gần hơn với người nông dân Sửa đổi quy định thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp Mức hỗ trợ mới phí bảo hiểm nông nghiệp |
Thị trường bảo hiểm ngày càng thu hẹp
Bảo hiểm nông nghiệp hiện nay đã bộc lộ nhiều rào cản. Hành lang pháp lý thiếu đồng bộ, kênh phân phối sản phẩm khó tiếp cận, trong khi tâm lý e dè của nông dân vẫn còn nặng nề. Thực tế này không chỉ khiến người dân “ngại” tham gia mà còn đặt chính quyền địa phương trước nhiều khó khăn trong quá trình triển khai.
Mới đây, Hội thảo “Giải pháp phát triển bảo hiểm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2025” tại Cần Thơ đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại. Sau hơn 6 năm triển khai Nghị định 58/2018/NĐ-CP, số lượng người tham gia ngày càng giảm sút.
![]() |
| Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nói về giải pháp phát triển bảo hiểm nông nghiệp |
Cụ thể, giai đoạn 2019-2021 có 16.731 hộ tham gia, với tổng giá trị được bảo hiểm 146 tỉ đồng, phí bảo hiểm gần 7 tỉ đồng (ngân sách hỗ trợ 5,72 tỉ đồng). Nhưng đến giai đoạn 2022-2025, chỉ còn 3.630 hộ tham gia, tổng giá trị bảo hiểm gần 71 tỉ đồng, phí bảo hiểm 2,6 tỉ đồng, trong đó ngân sách hỗ trợ 2,3 tỉ đồng.
So sánh rộng hơn, giai đoạn 2011-2013 từng thu hút trên 300.000 hộ và tổ chức tham gia, doanh thu đạt 394 tỉ đồng – cao gấp nhiều lần so với kết quả 6 năm gần đây. Hiện doanh thu từ bảo hiểm nông nghiệp chỉ chiếm chưa đến 0,1% toàn thị trường bảo hiểm, trong khi nông nghiệp lại sử dụng tới 30% lao động và mang về gần 63 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2024. Những con số này cho thấy sự chênh lệch lớn giữa tiềm năng và thực tế.
Theo nhận định của ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, ngành bảo hiểm và nông nghiệp đang chạy song song, không gặp nhau. Trong khi bảo hiểm cần dữ liệu về thời tiết, rủi ro, biến động năng suất… thì ngành nông nghiệp lại chưa cung cấp được đầu vào cần thiết.
Những con số trên không chỉ phản ánh sự “teo tóp” của bảo hiểm nông nghiệp qua từng giai đoạn, mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về một chính sách chưa thực sự đi vào đời sống.
Sửa đổi nghị định, đổi mới cách làm
Các chuyên gia, người dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương đã chỉ ra nguyên nhân cốt lõi là sản phẩm bảo hiểm thiếu linh hoạt, chưa sát thực tiễn. Với thủy sản, tôm sú và tôm thẻ chân trắng có tỷ lệ thiệt hại tới 60–70% chủ yếu do dịch bệnh, nhưng bảo hiểm lại chỉ chi trả rủi ro thiên tai. Hay với cây lúa – sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long – điều kiện được bồi thường cao hơn thực tế, khiến nông dân khó tiếp cận.
![]() |
| Sản phẩm bảo hiểm thiếu linh hoạt, chưa sát thực tiễn cần sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp |
Để khắc phục, cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung Nghị định 58/2018/NĐ-CP theo hướng: mở rộng phạm vi bảo hiểm cả rủi ro thiên tai và dịch bệnh; thiết kế sản phẩm đa dạng, phù hợp từng vùng, từng loại cây – con; tăng mức hỗ trợ phí, nhất là cho hộ nghèo, cận nghèo và hợp tác xã nhỏ; đơn giản hóa thủ tục, minh bạch quy trình bồi thường. Đồng thời, phải ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để giám định nhanh, giảm chi phí, củng cố niềm tin của nông dân.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, thiên tai bất thường và dịch bệnh phức tạp, nông nghiệp Việt Nam đứng trước nhiều rủi ro khó lường. Nếu không có “lá chắn” bảo hiểm, gánh nặng sẽ tiếp tục dồn lên vai nông dân, doanh nghiệp và ngân sách nhà nước. Sáu năm thực hiện Nghị định 58/2018/NĐ-CP đã cho thấy rõ hạn chế, vì vậy việc sửa đổi, hoàn thiện cơ chế chính sách không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là điều kiện sống còn để bảo hiểm nông nghiệp phát huy đúng vai trò.
Chỉ khi Nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm và người dân cùng chung tay, loại hình này mới thực sự trở thành điểm tựa an sinh vững chắc, giúp ngành nông nghiệp phát triển bền vững trước những thách thức ngày càng lớn.


